3/6/16

Cây rau má

Rau má tên khoa học là Centella asiatica (L.) Urb. Thuộc họ Hoa tán Apiaceae (Umbelliferae).
cay rau ma
Cây rau má

Mô tả cây rau má

Rau má là loại cỏ mọc bò, có rễ ở các mấu, thân gầy, nhẵn. Lá hình mắt chim, khía tai bèo, rộng 2-4cm, cuống dài 2-4cm trong những nhánh mang hoa và dài 10-12cm trong những nhánh thường. Cụm hoa đơn mọc ở kẽ lá, gồm 1 đến 5 hoa nhỏ. Quả dẹt rộng 3-5mm, có sống hơi rõ.
Cây mọc hoang tại khắp nơi ở Việt Nam và các nước nhiệt đới như Lào, Campuchia, Indonesia, Ấn Độ, v.v..
Toàn cây khi tươi có vị đắng, hăng hơi khó chịu; khi khô thì chỉ còn mùi cỏ khô. Thu hái được quanh năm. Dùng tươi hay sao vàng.

Tác dụng của rau má

Rau má hiện nay còn là một vị thuốc dùng trong dân gian, đồng thời còn là loại rau người ăn được. Nhân dân coi vị rau má là một vị thuốc mát, vị ngọt, hơi đắng, tính bình, không độc. Rau má có tính giải nhiệt, giải độc, thông tiểu, dùng chữa thổ huyết, tả lỵ, khí hư, bạch đới, lợi sữa.
Một ngày dùng 30 đến 40g tươi, vò nát vắt lấy nước uống hoặc sắc uống. Thuốc rau má không độc, phụ nữ có thai vẫn dùng được.
Tại một số nước, người ta cũng chú ý nghiên cứu rau má để tìm tác dụng chữa bệnh phong và bệnh lao.
Đơn thuốc có rau má:
  • Chữa đau bụng, đi ngoài lỏng, đi lỵ: Rau má (cả dây, cả lá) rửa sạch, thêm ít muối nhai sống. Ngày ăn chừng 30-40g theo kinh nghiệm nhân dân. Có thể luộc rau má mà ăn như ăn rau.
  • Chữa đau lưng, đau bụng (phụ nữ): Rau má hái lúc ra hoa, phơi khô, tán nhỏ. Ngày uống một lần, vào lúc buổi sáng, mỗi lần hai thìa cà phê gạt ngang.
  • Chữa rôm sẩy, mẩn ngứa: Hằng ngày ăn rau má trộn dầu dấm. Hoặc rau má hái về, giã nát, vắt lấy nước, thêm đường vào mà uống.
Theo "Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam" GS Đỗ Tất Lợi