3/6/16

Đương quy

Đương quy còn được gọi là tần quy, vân quy. Tên khoa học Angelica sinensis (Oliv) Diels, (Anglica polymorpha maxim. Var. sinensis Oliv). Thuộc họ Hoa tán Apraceae (Umbelliferaea).
Đương quy (Radix angelicae sinensis) là rễ phơi hay sấy khô của cây đương quy. Quy là về, vì vị thuốc này có tác dụng điều khí, nuôi huyết, làm cho huyết đang loạn xạ trở về chỗ cũ do đó có tên như vậy.
cay duong quy
Cây Đương quy

Mô tả cây đương quy

Đương quy là một loại cây nhỏ, sống lâu năm, cao chừng 40-80cm, thân màu tím có rãnh dọc. Lá mọc so le, 2-3 lần xẻ lông chim, cuống dài 3-12cm, 3 đôi lá chét phía trên đỉnh không có cuống, lá chét lại xẻ 1-2 lần nữa, mép có răng cưa, phía dưới cuống phát triển dài gần 1/2 cuống, ôm lấy thân. Hoa rất nhỏ màu xanh trắng họp thành cụm hoa hình tán kép gồm 12-40 hoa. Quả bế có rìa màu tím nhạt. Ra hoa vào tháng 7-8.
Đương quy hiện nay ta vẫn phải nhập củ Trung Quốc và Triền Tiên. Ta đã nhiều lần thí nghiệm trồng nhưng mới thành công trong phạm vị nhỏ ở Sapa tỉnh Lào Cai, chưa phổ biến rộng rãi.
Nhưng mới đây chúng ta đã trồng thành công đương quy ở vùng đồng bằng quanh Hà Nội do lợi dụng thời tiết lạnh của mùa rét, tuy nhiên chất lượng có khác.
Tại Trung Quốc, đương quy được trồng nhiều nhất ở các tỉnh Cam Túc, Tứ Xuyên, Vân Nam, Thiểm Tây.
Hằng năm vào mùa thu gieo hạt, cuối thu đầu đông nhổ cây con cho vào hố ở dưới đất cho qua mùa đông. Qua mùa xuân lại trồng, đến mùa đông lại bảo vệ. Đến mùa thu năm thứ 3 có thể thu hoạch. Đào rễ về cắt bỏ rễ con, phơi trong nhà hoặc cho vào trong thùng, sấy lửa nhẹ, cuối cùng phơi trong mát cho khô. Trên thị trường người ta còn phân biệt ra quy đầu là rễ chính và một bộ phận cỏ rễ; quy thân hay quy thoái là phần dưới của rễ chính hoặc là rễ phụ.
Quy vĩ là rễ phụ nhỏ, đông y cho rằng tính chất của mỗi bộ phận có khác nhau, nhưng hiện nay tại Trung Quốc người ta cũng đơn giản bớt đi và phần lớn trên thị trường trong nước cũng như xuất khẩu người ta không phân biệt nữa. Toàn rễ cái rễ phụ được gọi là toàn quy.

Tác dụng của đương quy

Theo đông y đương quy vị ngọt, cay, tính ôn. Vào 3 kinh tâm, can, tỳ, có tác dụng bổ huyết, hoạt huyết, nhuận táo, hoạt trường, điều huyết, thông kinh.
Đương quy là một vị thuốc rất phổ thông trong đông y. Nó là đầu vị trong thuốc chữa bệnh phụ nữ, đồng thời dùng trong nhiều đơn thuốc bổ và trị bệnh khác.
Chủ yếu dùng chữa bệnh kinh nguyệt không đều, thấy kinh đau bụng; trước khi thấy kinh 7 ngày thì uống. Ngày uống 6-15g dưới dạng thuốc sắc (chia làm 2 lần uống trong ngày) hoặc dưới dạng thuốc rượu mỗi lần 10ml, ngày uống 3 lần. Uống luôn 7-14 ngày. Còn làm thuốc bổ huyết chữa thiếu máu, chân tay đau nhức và lạnh.
Đơn thuốc có đương quy dùng trong đông y:
  • Bài tứ vật (tứ vật thang): đương quy, thục địa (hay sinh địa), mỗi vị 12g, bạch thược 8g, xuyên khung 6g, nước 600ml, sắc còn 200ml. Chia làm 3 lần uống trong ngày, làm thuốc chữa thiếu máu, cơ thể suy nhược, kinh nguyệt không đều, đau ở rốn, đẻ xong máu hôi chảy mãi không ngừng. Đối với phụ nữ sau khi sinh lắm bệnh có khi người ta dùng bài tứ vật nói trên thêm hắc can khương, hắc đậu (đậu đen), trạch lan, ngưu tất, ích mẫu, bồ hoàng.
  • Bài đương quy kiện trung thang của Trương Trọng Cảnh: dùng chữa bệnh phụ nữ sau khi đẻ, thiếu máu, thuốc bổ huyết : Đương quy 7g, quế chi, sinh khương, đại táo mỗi vị 6g, thược dược 10g, đường phèn 50g, nước 600ml, sắc còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày.
  • Chữa chảy máu cam không ngừng: Đương quy sao khô tán nhỏ, mỗi ngày dùng 2-3 lần, mỗi lân 4g. Dùng nước cháo mà chiêu thuốc.
  • Dưỡng não hoàn = viên dưỡng não: Dùng chữa mất ngủ, nhức đầu, ngủ hay mê : Đương quy 100g, viễn chí 40g, xương bồ 40g, táo nhân 60g, ngũ vị 60g, khởi tử 80g, đởm tinh 40g, thiên trúc hoàng 40g, long cốt 40g, ích trí nhân 60g, chu sa 40g, hồ đào nhục 80g, hổ phách 40g, nhục thung dung 80g, bá tử nhân 60g. Tất cả tán thành bột thêm mật ong vào viên thành viên mỗi viên nặng chừng 4g. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 viên. Uống luôn 15 ngày (bài thuốc kinh nghiệm Trung Quốc). Đã áp dụng thấy kết quả tốt ở bệnh viện Bạch Mai. Mất ngủ khỏi 85%, váng đầu khỏi 78,65%, ngủ mê đạt 77,22%, đau đầu đạt 79,59%.
Chú ý: Trong đông y phân biệt quy đầu, quy thân, quy vĩ có tác dụng khác nhau. Gần đây người ta chứng minh tỷ lệ tinh dầu ở các bộ phận khác nhau của rễ có khác nhau. Vậy kinh nghiệm người xưa không phải hoàn toàn vô lý chăng? Phần trên đã giới thiệu, ở đây chỉ nói quan niệm của một số thầy thuốc xưa: Theo Hoàng Cung Tú thì quy đầu có tác dụng cầm máu đi lên, quy thân thì nuôi huyết ở trung bộ, quy vĩ thì phá huyết đi xuống dưới. Toàn quy thì hoạt huyết. Quy vị cay thì hay tán, người nào hư, hỏa thịnh nên kiêng; vị ngọt thì ủng tắc, người nào tỳ vị hư hàn chớ dùng, thể nhuận tinh hoạt, người nào tiết tả nên kiêng.
Một tác giả cổ khác là Chương Sơn Lôi nói : Quy thân chủ thủ có công bồi dưỡng, quy vĩ chủ thông có công trục ứ, quy đầu có tính đi lên trên chữa những chứng tiện huyết, niệu huyết (tiểu tiện ra huyết) rất hay nhưng chữa thổ huyết, nục huyết (chảy máu cam), mà dùng thì có khác gì chắp cánh cho hổ, cho nên làm thuốc phải sành chớ ngộ nhận 2 chữ chỉ huyết (cầm máu) mà hại người (trích trong bản thảo cương mục, Lý Thời Trân, thể kỷ thứ 16).
Theo "Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam" GS Đỗ Tất Lợi